4. Công văn số 582/TCT-HTQT ngày 25/02/2019 về việc áp dụng Hiệp định thuế giữa Việt Nam – Thái Lan

Hoạt động kinh doanh của Bên vận hành (CHR) được thực hiện tại Khách sạn trong 10 năm bắt đầu từ ngày hiệu lực (27/8/2012) và sẽ được tự động gia hạn 10 năm hoạt động.

          Theo đó, các hoạt động của Bên vận hành (CHR) và đại diện của mình tại Khách sạn đã tạo nên cơ sở thường trú của Bên vận hành (CHR) tại Việt Nam.

Theo quy định tại Khoản 2 và Khoản 3, Điều 12 của Hiệp định nêu trên, trường hợp Bên vận hành (CHR) có nhận được thu nhập từ việc sử dụng “Thương hiệu” để thực hiện công việc kinh doanh của mình, đây là khoản thu nhập có tính chất bản quyền và có thể bị đánh thuế tại Việt Nạm với mức thuế suất không vượt quá 15% trên tổng số tiền bản quyền được trả.

Căn cứ các quy định tại Khoản 2, Điều 12 của Hiệp định và Điểm 2.a), Mục 3, Chương II, Thông tư số 60/2012/TT-BTC của Bộ Tài chính (và hiện nay là Điểm 2.a), Điều 13, Thông tư số 103/2014/TT-BTC ngày 06/8/2014), thu nhập từ tiền bản quyền Bên vận hành (CHR) thu được từ việc thực hiện Hợp đồng quản lý với Chủ sở hữu (Công ty BTNN) sẽ phải chịu thuế TNDN tại Việt Nam theo tỷ lệ 10% trên doanh thu tính thuế.

Căn cứ hướng dẫn tại khoản b.1), điểm 2, Điều 13, mục 3, Thông tư số 103/2014/TT-BTC ngày 06/8/2014 của Bộ Tài chính, trường hợp trong Hợp đồng quản lý, Bên vận hành (CHR) thực hiện quản lý và vận hành Khách sạn do Công ty BTNN là chủ sở hữu; đồng thời sử dụng “Thương hiệu” trong quá trình vận hành Khách sạn và thực hiện nộp thuế TNDN theo phương pháp tỷ lệ trên doanh thu thì việc áp dụng tỷ lệ thuế TNDN được căn cứ vào doanh thu tính thuế đối với từng hoạt động kinh doanh nêu trên. Trường hợp Bên vận hành (CHR) không tách riêng được giá trị từng hoạt động kinh doanh thì áp dụng tỷ lệ thuế TNDN đối với ngành nghề kinh doanh có tỷ lệ thuế TNDN cao nhất.

[contact-form-7 404 "Not Found"]
Trả lời
error:
GỌI ĐIỆN NGAY 0937967242